Phụ nữ có thai (PNCT) là một đối tượng phải đặc biệt thận trọng trong sử dụng thuốc. Bởi vì thuốc được sử dụng trong thời kỳ thai nghén có thể gây tác dụng xấu đến bất cứ giai đoạn phát triển nào của thai kỳ, đặc biệt 3 tháng đầu của thai kỳ (một số thuốc có thể gây ra quái thai, dị tật bẩm sinh…).
Như vậy, tốt nhất là không nên dùng thuốc ở PNCT. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp phải dùng thuốc, nếu không dùng thuốc chữa bệnh cho thai phụ thì sẽ nguy hiểm cho bào thai.
Về độ an toàn của thuốc dùng cho PNCT, ở Mỹ có đưa ra hệ thống phân loại thuốc có 5 mức A, B, C, D và X. A là thuốc thuộc loại an toàn cho PNCT, nếu thuốc được ghi loại A có nghĩa thuốc dùng được cho PNCT (thí dụ như axít folic hoặc vitamin B6). X là thuốc có hại, tuyệt đối không dùng (tức chống chỉ định) cho PNCT (thí dụ như thuốc trị ung thư ). Giữa A và X có 3 loại B, C, D là các thuốc có thể chỉ định cho PNCT trong trường hợp cần thiết và phải cân nhắc giữa lợi ích điều trị và nguy cơ gây hại. Thuốc loại B an toàn hơn C, D nghĩa là thuốc loại C bắt buộc dùng phải cân nhắc kỹ hơn thuốc loại B và nếu là thuốc loại D thì tốt nhất là không nên dùng (bởi vì kế cận với mức X).
Một rối loạn có thể xảy ra cho phụ nữ có thai là tăng huyết áp (THA). Đối với PNCT, thuốc trị THA từ lâu thường được dùng là methyldopa. Theo hệ thống phân loại 5 mức kể trên, methyldopa thuộc loại B. Nghĩa là, methyldopa thuộc loại tương đối an toàn cho PNCT, dùng thuốc loại này đương nhiên cũng có sự cân nhắc của nhà điều trị nhưng không phải đòi hỏi mức độ cảnh giác như thuộc loại C, D. Ngoài methyldopa có thuốc trị THA nào khác có thể dùng thay thế? Đây là câu hỏi thường đặt ra vì hiện nay có nhiều nhóm thuốc mới so với thuốc cổ điển ít được dùng là methyldopa như: thuốc chẹn bêta, thuốc chẹn kênh canxi, thuốc ức chế men chuyển, thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II và các nhà điều trị thường chọn lựa dùng thuốc thuộc các nhóm thuốc mới này.
Theo nhiều tài liệu, nhóm thuốc trị THA không được dùng cho PNCT là nhóm ức chế men chuyển (ACEI) và nhóm đối kháng thụ thể angiotensin II (ARB). Khi PNCT bị THA kinh niên nếu đang dùng thuốc nhóm ACEI (như captopril, elanapril, lisinopril…) bắt buộc phải ngưng thuốc. Bởi vì thuốc ACEI dùng khi mang thai sẽ gây loạn phát triển thận ở thai nhi (fetal renal dysgenesis), đặc biệt gây chết thai ở giữa hoặc cuối thai kỳ. Thuốc nhóm ARB (như: losartan, valsartan, irbesartan…) cũng chống chỉ định với PNCT vì có cùng cơ chế tác dụng gần giống như nhóm ACEI. Cả 2 nhóm thuốc vừa kể thuộc loại D trong hệ thống phân loại độ an toàn với PNCT.
Các thuốc sau đây có thể dùng cho PNCT thay thế cho methyldopa trong trường hợp không dùng được methyldopa và nhà điều trị phải cân nhắc kỹ giữa lợi ích điều trị và nguy cơ gây hại, bởi vì các thuốc thay thế đều thuộc loại C:
– Nhóm giãn mạch: hydralazin (tùy theo tài liệu, được phân loại B hoặc loại C).
– Nhóm chẹn bêta: latetalol, metoprolol, pindolol (ba thuốc vừa kể được phân loại C, chú ý có thuốc trong nhóm là atenolol có tài liệu phân loại D tức không an toàn cho thai, tốt nhất không dùng).
– Nhóm chẹn kênh canxi: nifedipin (được phân loại C, nhà sản xuất Adalat-biệt dược của nifedipin có ghi “chống chỉ định với PNCT” nhưng khi thật cần thiết bác sĩ vẫn có thể cho dùng).
Khi PNCT bị tiền sản giật, một thuốc được dùng chống co giật được phân loại A (an toàn cho PNCT) làmagnesium sulfate (tiêm bắp hay tiêm tĩnh mạch).
Theo Suckhoedoisong